Thứ Hai, 22 tháng 8, 2011

BIỂN ĐÔNG - TƯƠNG LAI CỦA XUNG ĐỘT.


Chiến trường quyết định của thế kỷ 21 sẽ là trên mặt nước.

Robert D. Kaplan

Châu Âu là một bức địa cảnh; Đông Á là một bức thủy cảnh. Trong đó ẩn chứa một sự khác biệt chủ yếu giữa hai thế kỷ 20 và 21. Những khu vực bị tranh chấp nhiều nhất trên thế giới trong thế kỷ vừa qua nằm trên đất liền khô cạn ở châu Âu, đặc biệt là trong sự mở rộng mặt bằng tạo nên những đường biên giới giả tạo ở phía đông và phía tây nước Đức và phơi ra cho cuộc hành quân bất lay chuyển của quân đội. Nhưng trong nhiều thập niên, trục nhân khẩu học và kinh tế của Trái Đất đã dịch chuyển đáng kể đến tận cùng bên kia của lục địa Âu – Á, nơi không gian giữa những trung tâm dân số lớn chủ yếu là biển.

Nhờ cách thức mà địa lý học giải thích và đặt ra các ưu tiên, những đường nét tự nhiên của Đông Á báo trước một thế kỷ hải quân – hải quân ở đây được xác định theo nghĩa rộng bao gồm cả các đội hình chiến đấu trên biển và trên không mà giờ đây đã trở nên ngày càng phức tạp. Tại sao? Trung Quốc, đặc biệt là hiện nay khi các đường biên giới trên bộ của nước này an toàn hơn so với bất cứ thời nào kể khi Nhà Thanh cực thịnh vào cuối thế kỷ 18, đang bận rộn trong việc mở rộng hải quân một cách không thể chối cãi. Chính nhờ sức mạnh trên biển mà Trung Quốc sẽ xóa bỏ về mặt tâm lý hai thế kỷ những tội ác của nước ngoài trên lãnh thổ của mình – buộc tất cả các nước xung quanh phải phản ứng.

Giao chiến quân sự trên đất liền và trên biển rất khác biệt, có những tác động lớn đến các chiến lược lớn cần thiết để chiến thắng – hoặc né tránh – chúng. Giao chiến trên đất liền vướng víu dân thường, trên thực tế làm cho các quyền con người trở thành một yếu tố nổi bật của các nghiên cứu chiến tranh. Đánh nhau trên biển tiếp cận xung đột như một vấn đề lâm sàng và mang tính kỹ trị, trên thực tế giảm thiểu chiến tranh thành toán học, tương phản rõ rệt với các trận chiến trí tuệ vốn đã giúp định rõ các cuộc xung đột trước kia.

Thế chiến II là một cuộc đấu tranh đạo đức chống lại chủ nghĩa phát xít, hệ tư tưởng chịu trách nhiệm về cái chết của hàng chục triệu người không tham chiến. Chiến tranh Lạnh là một cuộc chiến đạo đức chống lại chủ nghĩa cộng sản, hệ tư tưởng áp bức tương tự đã cai trị các vùng lãnh thổ rộng lớn mà Hồng quân Liên Xô chiếm đoạt. Thời kỳ ngay sau Thế chiến II trở thành một cuộc chiến đạo lý chống lại tội diệt chủng ở vùng Balkan và Trung Phi, hai nơi mà chiến tranh trên đất liền và các tội ác chống loài người luôn song hành. Gần đây hơn, một cuộc chiến đạo đức chống lại Hồi giáo cực đoan đã lôi kéo Mỹ vào sâu các vùng đồi núi Afghanistan, nơi sự đối xử nhân đạo với hàng triệu dân thường có tính quyết định đối với thành công của cuộc chiến. Trong tất cả những nỗ lực ấy, chính sách ngoại giao và chiến tranh đã trở thành các đề tài không chỉ cho lính tráng và các nhà ngoại giao mà còn cho cả giới nghiên cứu nhân văn và trí thức. Quả thực, việc chống chiến tranh du kích thể hiện đỉnh cao của nhiều sự kết hợp giữa các sĩ quan quân phục và các chuyên gia nhân quyền. Đây là kết cục của loại chiến tranh trên bộ phát triển thành một cuộc chiến toàn diện ở thời hiện đại.

Đông Á, hay chính xác hơn là Tây Thái Bình Dương, nơi đang nhanh chóng trở thành tâm điểm mới của các hoạt động hải quân thế giới, báo trước một động lực hoàn toàn khác biệt về cơ bản. Nhiều khả năng khu vực này sẽ tạo ra một số cuộc chiến đạo đức mà chúng ta đã quen trong thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, với ngoại lệ là khả năng xa về một cuộc chiến trên bộ ở Bán đảo Triều Tiên. Tây Thái Bình Dương sẽ giao trả các vấn đề quân sự cho lĩnh vực chật hẹp của các chuyên gia quốc phòng. Điều này không phải chỉ bởi chúng ta đang đối phó một lĩnh vực hải quân, trong đó dân thường không hiện diện, mà còn bởi vì bản chất của chính các quốc gia ở Đông Á, như Trung Quốc chẳng hạn, có thể rất độc đoán nhưng trong hầu hết các trường hợp lại không bạo ngược hoặc độc ác cực điểm.

Cuộc đấu giành vị trí đứng đầu ở Tây Thái Bình Dương sẽ không nhất thiết phải dính đến chiến tranh; phần lớn những gì xảy ra sẽ xảy ra một cách êm ả và ở ngoài đường chân trời trên không phận biển trống vắng, ở một nhịp độ lạnh lùng phù hợp với sự điều chỉnh đều đặn, chậm rãi theo sức mạnh quân sự và kinh tế ưu việt hơn mà các nước đã tạo dựng được qua lịch sử. Chiến tranh còn lâu mới xảy ra ngay cả khi cạnh tranh là một sự định sẵn. Và nếu Trung Quốc và Mỹ giải quyết thành công cuộc bàn giao sắp tới thì châu Á và cả thế giới sẽ trở thành một nơi phồn thịnh, an toàn hơn. Còn điều gì đạo đức hơn thế? Hãy nhớ: Chính chủ nghĩa hiện thực phục vụ lợi ích quốc gia – mục đích là tránh chiến tranh – đã cứu sống nhiều nhân mạng trong suốt chiều dài lịch sử hơn so với chủ nghĩa can thiệp nhân đạo.

Đông Á là một dải rộng lớn, trải dài gần như từ Bắc Cực tới Nam Cực – từ quần đảo Kuril về phía nam tới New Zealand – và có đặc điểm là một dãy đứt đoạn các bờ biển riêng biệt và các quần đảo trải rộng bao la. Ngay cả tính đến việc công nghệ đã rút ngắn khoảng cách hiệu quả đến thế nào thì vùng biển này tự nó vẫn đóng vai trò như một hàng rào ngăn xâm lược, ít nhất cũng ở một mức độ mà đất liền khô cạn không thể làm được. Không giống như đất liền, vùng biển này tạo thành các đường biên giới được định rõ, cho phép nó có khả năng làm giảm xung đột. Bên cạnh đó cần tính đến tốc độ. Ngay cả các tàu chiến nhanh nhất cũng di chuyển tương đối chậm chạp, 35 hải lý, làm giảm bớt cơ hội của tính toán sai và cho các nhà ngoại giao nhiều giờ hơn – thậm chí nhiều ngày hơn – để xem xét lại các quyết định. Các lực lượng hải quân và không quân đơn giản là không chiếm đóng lãnh thổ theo cách các quân đội vẫn làm. Chính nhờ các vùng biển xung quanh Đông Á – trung tâm sản xuất của thế giới cũng như số hợp đồng mua sắm quân sự ngày càng tăng – mà thế kỷ 21 có một cơ hội tốt hơn so với thế kỷ 20 trong việc tránh những cuộc xung đột quân sự lớn.

Tất nhiên, Đông Á đã chứng kiến nhiều xung đột quân sự lớn trong thế kỷ 20 mà các vùng biển đã không ngăn chặn được: Chiến tranh Nga – Nhật; nội chiến gần nửa thế kỷ ở Trung Quốc xảy ra với sự sụp đổ từ từ của Nhà Thanh; nhiều cuộc chinh phạt của đế quốc Nhật, tiếp đến là Thế chiến II ở Thái Bình Dương; cuộc chiến Triều Tiên; các cuộc chiến ở Campuchia và Lào; và hai cuộc chiến ở Việt Nam liên quan tới Pháp và Mỹ. Thực tế địa lý Đông Á chủ yếu là biển đã có rất ít ảnh hưởng đến những cuộc chiến tranh mà tâm điểm của chúng là các xung đột về thống nhất hoặc giải phóng dân tộc. Nhưng thời đại ấy phần lớn nằm phía sau chúng ta. Các quân đội ở Đông Á, thay vì tập trung vào bên trong với các đội quân công nghệ thấp, nay đang hướng ra ngoài với các lực lượng hải quân và không quân công nghệ cao.

Ví Trung Quốc ngày nay với nước Đức trước Thế Chiến I như nhiều người có thể so sánh thì không đúng. Trong khi Đức chủ yếu là một cường quốc đất liền, do địa thế của châu Âu, thì Trung Quốc sẽ là một cường quốc hải quân, do địa lý của Đông Á.

Đông Á có thể chia thành hai khu vực chung: Đông Bắc Á – bị chi phối bởi Bán đảo Triều Tiên, và Đông Nam Á, bị chi phối bởi Biển Đông. Đông Bắc Á xoay quanh vận mệnh Bắc Triều Tiên, một đất nước bị cô lập và chuyên chế với tương lai u mê trong một thế giới do chủ nghĩa tư bản và liên lạc điện tử chi phối. Nếu Bắc Triều Tiên nổ tung, các lực lượng trên bộ của Hàn Quốc, Mỹ và Trung Quốc có thể chạm trán nhau trên nửa bắc của Bán đảo trong khởi nguồn của mọi sự can thiệp nhân đạo, ngay cả khi họ chia ra các khu vực ảnh hưởng cho chính mình. Các lực lượng hải quân sẽ là thứ yếu. Nhưng một sự thống nhất sau cùng của Triều Tiên sẽ sớm đưa các lực lượng hải quân lên vị trí chỉ đạo, với một Triều Tiên thống nhất, Trung Quốc, và Nhật Bản trong sự cân bằng mong manh, cách nhau bởi Biển Nhật Bản, Hoàng Hải và Bột Hải. Tuy nhiên, do Bắc Triều Tiên vẫn tồn tại nên giai đoạn Chiến tranh Lạnh trong lịch sử Đông bắc Á vẫn chưa kết thúc hoàn toàn, và sức mạnh trên bộ có thể sẽ chi phối tin tức ở đó trước khi sức mạnh trên biển làm được điều này.

Trái lại, Đông Nam Á đang chìm sâu vào giai đoạn hậu Chiến tranh Lạnh của lịch sử. Việt Nam, nước chiếm ưu thế trên bờ phía tây Biển Đông, là một sự tàn phá tư bản chủ nghĩa bất chấp hệ thống chính trị của nước này, đang tìm kiếm các mối quan hệ quân sự thân thiết hơn với Mỹ. Trung Quốc, thống nhất như một nhà nước của triều đại Mao Trạch Đông sau nhiều thập niên hỗn loạn và trở thành nền kinh tế năng động nhất thế giới nhờ những mở rộng tự do của Đặng Tiểu Bình, đang vươn ra bên ngoài bằng lực lượng hải quân tới những gì mà họ gọi là “chuỗi đảo đầu tiên” ở Tây Thái Bình Dương.

Nước đông dân Hồi giáo Indonesia, đã phải chịu đựng và rút cục chấm dứt được nhiều chục năm quân đội cầm quyền, đang sẵn sàng nổi lên như một Ấn Độ thứ hai – một nền dân chủ năng động và ổn định với khả năng phóng sức mạnh theo cách nền kinh tế đang tăng trưởng của nước này. Singapore và Malaysia cũng đang nổi lên về kinh tế, đi theo mô hình nhà nước-thành phố-kết hợp-nhà nước-kinh doanh và thông qua những pha trộn khác nhau của dân chủ và độc tài. Bức tranh ghép đủ màu là một cụm các quốc gia, với những vấn đề về tính hợp pháp nội địa và xây dựng đất nước nằm đằng sau, đã sẵn sàng nâng cao nhận thức về các quyền lãnh thổ vượt ra ngoài bờ biển của họ. Sức đẩy chung ra phía ngoài nằm trong buồng lái nhân khẩu học của thế giới, vì nó nằm ở Đông Nam Á với 615 triệu dân, nơi 1,3 tỷ người của Trung Quốc tập trung cùng 1,5 tỷ người của tiểu lục địa Ấn Độ. Và nơi gặp gỡ địa lý của các quốc gia này, cùng quân đội của họ, là biển: Biển Đông.

Biển Đông nối các nước Đông Nam Á với Tây Thái Bình Dương, có chức năng như một yết hầu của các tuyến đường biển quốc tế. Đây là trung tâm hàng hải của của Âu-Á, được nhấn mạnh bằng các eo biển Malacca, Sunda, Lombok, và Makassar. Hơn nửa số lượng tàu buôn hàng năm của thế giới cùng một phần ba tất cả các hoạt động hàng hải phải chạy qua những điểm eo hẹp này. Dầu lửa được vận chuyển qua Eo biển Malacca từ Ấn Độ Dương, trên đường tới Đông Á qua Biển Đông, nhiều gấp 6 lần so với số lượng được chuyển qua Kênh đào Suez và 17 lần so với số lượng qua Kênh đào Panama. Xấp xỉ 2/3 các nguồn cung năng lượng của Hàn Quốc, gần 60% các nguồn cung năng lượng của Nhật Bản và Đài Loan, và khoảng 80% lượng dầu thô nhập khẩu của Trung Quốc đi qua Biển Đông. Không chỉ có thế, Biển Đông còn được chứng minh có các mỏ dầu 7 tỷ thùng và ước tính 900 nghìn tỷ feet khối khí tự nhiên, một phần thưởng rất lớn về tiềm năng.

Không chỉ vị trí và dự trữ năng lượng hứa hẹn mang lại cho Biển Đông tầm quan trọng địa chiến lược then chốt mà cả những tranh cãi lãnh thổ từ lâu xung quanh vùng biển này. Một số tranh chấp liên quan tới Trường Sa, một quần đảo nhỏ ở phía đông nam Biển Đông. Việt Nam, Đài Loan và Trung Quốc mỗi bên đều tuyên bố chủ quyền ở tất cả hoặc hầu hết Biển Đông, cũng như tất cả các nhóm đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Đặc biệt, Bắc Kinh còn khẳng định một tuyến đường lịch sử: nước này đòi chủ quyền tận trung tâm của Biển Đông trong một đường cong lớn (được biết đến rộng rãi là đường lưỡi bò) từ đảo Hải Nam ở cực bắc của Biển Đông hướng về phía nam dài 1.200 dặm tới gần Singapore và Malaysia.

Kết quả là cả 9 quốc gia dính đến Biển Đông đều ít nhiều dàn trận chống lại Trung Quốc, và vì thế dựa vào Mỹ về hỗ trợ ngoại giao và quân sự. Những tuyên bố xung đột đó nhiều khả năng sẽ còn kịch liệt hơn khi các nhu cầu về năng lượng tăng cao ở châu Á – mức tiêu thụ năng lượng được cho là tăng gấp đôi vào năm 2030, với Trung Quốc chiếm gần một nửa mức tăng đó – làm cho Biển Đông trở thành một sự bảo đảm quan trọng hơn bao giờ hết cho sức mạnh kinh tế của khu vực. Biển Đông đã trở thành một trại vũ trang, khi các bên tuyên bố chủ quyền xây dựng và hiện đại hóa hải quân của họ, kể cả khi tranh chấp biển đảo trong những thập niên gần đây hầu như đã chấm dứt. Đến nay, Trung Quốc đã chiếm 12 đặc điểm địa lý, Đài Loan chiếm 1, Việt Nam 25, Philippines 8 và Malaysia 5.

Chính địa lý của Trung Quốc định hướng nước này theo hướng Biển Đông. Trung Quốc nhìn về phương nam hướng tới một lòng chảo nước được hình thành, theo chiều kim đồng hồ, bởi Đài Loan, Philippines, đảo Borneo chia tách giữa Malaysia và Indonesia (cả Brunei nhỏ bé), Bán đảo Malay phân chia giữa Thái Lan và Malaysia, và dải bờ biển dài như rắn lượn của Việt Nam: tất cả đều là các nước yếu, so với Trung Quốc. Giống như Biển Caribbe, được nhấn mạnh bởi các quốc đảo nhỏ và được bao quanh bởi nước Mỹ to như lục địa, Biển Đông rõ ràng là một vũ đài cho việc phóng tỏa quyền lực của Trung Quốc.

Do vậy, vị trí của Trung Quốc ở đây theo nhiều cách rất giống với vị trí của Mỹ đối diện với Carribe rộng tương tự hồi thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Mỹ công nhận sự hiện diện và các tuyên bố của nhiều cường quốc châu Âu ở Caribbe nhưng vẫn tìm cách thống trị cả khu vực. Chính cuộc chiến Tây Ban Nha – Mỹ năm 1898 và việc đào kênh Panama từ năm 1904 tới 1914 đã báo hiệu sự xuất hiện của Mỹ như một cường quốc thế giới. Hơn nữa, sự thống trị vùng Caribbe rộng lớn hơn giúp Mỹ kiểm soát hiệu quả vùng Tây Bán Cầu, cho phép nước này gây ảnh hưởng đến cán cân quyền lực ở Đông Bán Cầu. Và ngày nay, Trung Quốc tự thấy mình trong tình thế tương tự ở Biển Đông, một phòng chờ của Ấn Độ Dương, nơi Trung Quốc cũng thèm khát một sự hiện diện của hải quân để bảo vệ các nguồn cung năng lượng của mình từ Trung Đông.

Tuy nhiên, một thứ sâu sắc và cảm động hơn địa lý đang thúc đẩy Trung Quốc tiến vào Biển Đông và tiến ra Thái Bình Dương: đó là sự tan rã một phần của chính Trung Quốc bởi các cường quốc phương Tây trong quá khứ tương đối gần đây, sau khi đã trở thành một sức mạnh vĩ đại và một nền văn minh thế giới trong nhiều thiên niên kỷ.

Trong thế kỷ 19, Nhà Thanh trở thành một kẻ bệnh tật của Đông Á. Trung Quốc mất rất nhiều lãnh thổ vào tay Anh, Pháp, Nhật và Nga. Thế kỷ 20 chứng kiến cuộc thôn tính đẫm máu của Nhật Bản đối với Bán đảo Sơn Đông và Mãn Châu. Tất cả những điều đó là sự nhục nhã đỉnh điểm ép buộc Trung Quốc bằng các thỏa thuận đặc quyền ngoại giao của thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, nhờ đó các nước phương Tây giành quyền kiểm soát nhiều phần của các thành phố Trung Quốc – được gọi là “các hải cảng mở cho thương mại nước ngoài”. Năm 1938, như sử gia Jonathan D. Spence của Đại học Yale, nói cho chúng ta biết trong cuốn “The Search for Modern China”, do những vụ cướp bóc này cùng với Cuộc Nội chiến Trung Quốc mà vẫn còn âm ỉ nỗi sợ rằng “Trung Quốc sắp bị chặt chân tay, khiến nước này không thể tồn tại như một quốc gia, và rằng lịch sử 4000 năm được ghi lại của họ sẽ tiến tới một hồi kết điếng người”. Việc Trung Quốc hối hả mở rộng là một lời tuyên bố rằng nước này sẽ không bao giờ để cho người ngoài lợi dụng một lần nữa.

Giống như lãnh thổ Đức tạo nên mặt trận quân sự tiền phương của Chiến tranh Lạnh, các vùng nước ở Biển Đông có thể hình thành một mặt trận quân sự tiền phương cho những thập niên sắp tới. Khi Hải quân Trung Quốc trở nên mạnh mẽ hơn, và khi những đòi hỏi của Trung Quốc ở Biển Đông trái ngược với những tuyên bố của các nước ven biển khác, các nước này sẽ buộc phải phát triển hơn nữa các khả năng hải quân của mình. Họ cũng sẽ cân bằng trước Trung Quốc bằng cách tăng cường dựa vào Hải quân Mỹ, lực lượng có sức mạnh đã đạt đến đỉnh cao trong các điều kiện tương đối, ngay cả khi phải chuyển hướng các nguồn lực lớn tới Trung Đông. Đa cực khắp thế giới đã là một đặc điểm của ngoại giao và kinh tế, nhưng Biển Đông có thể cho chúng ta thấy đa cực thực sự sẽ như thế nào theo nghĩa quân sự.

Chẳng có gì lãng mạn về mặt trận mới này, cũng không có nghĩa như các cuộc chiến đấu đạo đức. Trong các cuộc xung đột hải quân, nếu không có pháo kích trên bờ thì tự nó không có nạn nhân; cũng không có một kẻ thù can đảm để mà đối đầu. Chẳng có gì ở quy mô thanh trừng sắc tộc có khả năng xảy ra ở chiến trường trung tâm mới của xung đột. Trung Quốc, tuy những người bất đồng chính kiến vẫn phải chịu đựng, đơn giản là không đến độ là mục tiêu của cơn thịnh nộ đạo đức. Chế độ Trung Quốc chỉ thể hiện một phiên bản hàm lượng calo thấp của chủ nghĩa độc đoán, với một nền kinh tế tư bản và một chút ý thức hệ chủ đạo để mà nói đến. Hơn nữa, Trung Quốc nhiều khả năng sẽ trở thành một xã hội cởi mở hơn chứ không khép lại trong những năm tới. Thay vì chủ nghĩa phát xít hay chủ nghĩa quân phiệt, Trung Quốc – cùng với các nước khác ở Đông Á – đang ngày càng được xác định bởi sự tồn tại của chủ nghĩa dân tộc kiểu cũ: một ý tưởng, chắc chắn vậy, nhưng không phải là loại hấp dẫn giới trí thức từ giữa thế kỷ 19. Và ngay cả nếu Trung Quốc có trở nên dân chủ hơn thì chủ nghĩa dân tộc của họ cũng chỉ có khả năng tăng lên, như được tỏ rõ trong một cuộc khảo sát ngẫu nhiên về quan điểm của các cư dân mạng khá tự do của nước này.

Chúng ta thường nghĩ về chủ nghĩa dân tộc như một tình cảm phản động, một di vật của thế kỷ 19. Tuy nhiên, chính chủ nghĩa dân tộc truyền thống đã thúc đẩy chính trị ở châu Á, và sẽ tiếp tục làm như thế. Chủ nghĩ dân tộc ấy dang dẫn dắt một cách không cần biện giải tới sự lớn mạnh của quân đội các nước trong khu vực – đặc biệt là hải quân và không quân – để bảo vệ chủ quyền và tuyên bố chủ quyền đối với các nguồn tài nguyên tranh chấp. Không có sự quyến rũ triết lý ở đây. Tất cả là về một logic lạnh lùng của cán cân quyền lực. Đến mức độ đó, chủ nghĩa hiện thực vô cảm, vốn liên kết với chủ nghĩa dân tộc, có một ngôi nhà địa lý, đó là Biển Đông.

Bất cứ thảm kịch đạo đức nào xảy ra ở Đông Á đều sẽ mang hình thức chính trị quyền lực khắc khổ của loại khiến rất nhiều trí thức và nhà báo tê liệt. Như Thucydides đã giải thích rất đáng nhớ trong câu chuyện ông kể về cuộc chinh phạt đảo Melos của người Athens cổ đại. “Kẻ mạnh làm những gì họ có thể và kẻ yếu chịu đựng những gì họ phải chịu”. Trong câu chuyện kể lại của thế kỷ 21, với Trung Quốc trong vai trò của người Athen như một cường quốc biển vượt trội trong khu vực, kẻ yếu vẫn phải cam chịu – nhưng chỉ thế thôi. Đây sẽ là chiến lược im ỉm của Trung Quốc và các nước nhỏ hơn ở Đông Nam Á có thể liên kết với Mỹ để tránh số phận của người Melo. Nhưng sẽ không có tàn sát ở đó.

Biển Đông báo trước một hình thức xung đột khác so với những cuộc xung đột mà chúng ta từng biết đến. Từ đầu thế kỷ 20, chúng ta đã bị tổn thương bởi một mặt là những trận chiến lớn theo lối cổ truyền trên bộ, mặt khác là những cuộc chiến nhỏ bẩn thỉu và bất thường. Vì cả hai loại chiến tranh này đều gây thương vong lớn cho dân thường nên chiến tranh đã trở thành một chủ đề cho những người theo chủ nghĩa nhân văn cùng các tướng lĩnh. Nhưng trong tương lai, chúng ta chỉ có thể chứng kiến một hình thức thuần túy hơn của xung đột, giới hạn trong lĩnh vực hải quân. Đây là một viễn cảnh tích cực. Xung đột không thể bị loại bỏ hoàn toàn khỏi thân phận con người. Một chủ đề trong “Các luận đàm về Livy” của Machiavelli là xung đột đó, nếu được kiểm soát đúng đắn, sẽ có khả năng dẫn đến tiến bộ của loài người hơn so với sự ổn định cứng nhắc. Một vùng biển đầy tàu chiến không mâu thuẫn với một kỷ nguyên tràn đầy hứa hẹn cho châu Á. Sự bất an thường nuôi dưỡng động lực.

Nhưng liệu xung đột ở Biển Đông có thể kiểm soát một cách đúng đắn không? Đến đây, lập luận của tôi cho rằng một cuộc chiến tranh lớn sẽ không nổ ra trong khu vực và thay vào dó, các nước sẽ bằng lòng để khôn khéo giành ưu thế với các tàu chiến của họ ở các vùng biển cả, trong khi vẫn đưa ra các tuyên bố cạnh tranh các nguồn tài nguyên thiên nhiên và có lẽ còn đồng ý phân chia chúng một cách công bằng. Nhưng ra sao nếu Trung Quốc, đi ngược lại mọi xu hướng dựa trên bằng chứng, xâm lược Đài Loan? Thế nào nếu Trung Quốc và Việt Nam, hai nước hiện đang cạnh tranh gay gắt bắt nguồn từ sâu trong lịch sử, xảy ra chiến tranh như hồi năm 1979, với nhiều vũ khí gây chết người hơn thời nay? Vì không chỉ một mình Trung Quốc đang xây dựng mạnh mẽ quân đội của mình, các nước Đông Nam Á cũng thế. Ngân sách quốc phòng của họ tăng lên khoảng 1/3 trong thập niên qua, ngay cả khi ngân sách quốc phòng của các nước châu Âu đã giảm bớt. Nhập khẩu vũ khí vào Indonesia, Singapore, và Malaysia lần lượt tăng 84%, 146%, và 722% kể từ năm 2000. Chi tiêu đều dành cho các nền tảng của hải quân và không quân: chiến hạm trên mặt nước, tàu ngầm với các hệ thống tên lửa tân tiến, và các phi cơ chiến đấu tầm xa. Mới đây, Việt Nam đã chi 2 tỷ USD mua 6 tàu ngầm hạng Kilo tối tân và 1 tỷ USD mua các chiến đấu cơ của Nga. Malaysia vừa mở một căn cứ tàu ngầm trên đảo Borneo. Mặc dù Mỹ bị phân tâm bởi các cuộc chiến trên bộ ở Trung Đông, sức mạnh quân sự của nước này vẫn đang lặng lẽ dịch chuyển từ châu Âu đến châu Á.

Mỹ hiện thời đang bảo đảm cho hiện trạng không yên ở Biển Đông, hạn chế sự xâm lược của Trung Quốc chủ yếu trên các bản đồ và giữ vai trò như một sự kiểm tra đối với các nhà ngoại giao và hải quân của Trung Quốc (nhưng điều này không phải để nói rằng Mỹ trong sáng trong các hành động của mình còn Trung Quốc tự là kẻ ác). Những gì Mỹ mang đến cho các nước trong khu vực Biển Đông không nhiều thực tế về lòng tốt dân chủ bằng sự thật về sức mạnh cơ bắp của nước này. Chính sự cân bằng quyền lực giữa Mỹ và Trung Quốc rụt cục sẽ giữ cho Việt Nam, Đài Loan, Philippines, Indonesia, Singapore và Malaysia được tự do, có thể kích bẩy cường quốc này chống lại cường quốc kia. Và trong không gian tự do đó, chủ nghĩa khu vực có thể nổi lên như một sức mạnh của chính nó, dưới hình thức ASEAN. Tuy nhiên, loại tự do như vậy không tự nhiên mà có. Vì sự bế tắc căng thẳng đang diễn ra giữa Mỹ và Trung Quốc – vốn mở rộng thành một loạt các chủ đề phức tạp từ thương mại, cải cách tiền tệ, an ninh mạng đến giám sát tình báo – các mối đe dọa rút cục sẽ làm thay đổi thiện cảm của Trung Quốc ở Đông Á, chủ yếu là do trung tâm địa lý của Trung Quốc đối với khu vực.

Tổng kết toàn diện nhất của cảnh quan địa chính trị châu Á không đến từ Bắc Kinh hay Washington mà từ Canberra. Trong một bài viết dài 74 trang được xuất bản năm ngoái, “Dịch chuyển quyền lực: Tương lai của Australia giữa Washington và Bắc Kinh”, tác giả Hugh White, giáo sư nghiên cứu chiến lược tại Đại học quốc gia Australia, mô tả đất nước ông là một cường quốc “nguyên trạng” tinh hoa – một nước đang hết sức muốn tình hình ở châu Á duy trì đúng như hiện nay, với Trung Quốc tiếp tục phát triển để Australia có thể buôn bán ngày càng nhiều hơn với nước này, trong khi Mỹ vẫn là “quyền lực mạnh nhất ở châu Á” để luôn là “người bảo vệ tối thượng” của Australia. Tuy nhiên, như White viết, vấn đề là cả hai điều này đều không thể diễn ra. Châu Á không thể tiếp tục thay đổi về kinh tế mà không thay đổi về chính trị và chiến lược; một nền kinh tế khổng lồ Trung Quốc tất nhiên sẽ không hài lòng với vị thế đứng đầu quân sự của Mỹ ở châu Á.

Vậy Trung Quốc muốn gì? Giáo sư White cho rằng, Trung Quốc có thể mong muốn một loại đế chế kiểu mới ở châu Á mà Mỹ đã xây dựng ở Tây Bán cầu ngay khi Washington đảm bảo sự thống trị đối với Lòng chảo Caribbe (như Bắc Kinh hy vọng sẽ thống trị Biển Đông). Đế chế kiểu mới này, theo diễn giải của White, có nghĩa là các nước láng giềng của Mỹ “ít hay nhiều sẽ tự do điều hành đất nước của chính họ”, ngay cả khi Washington có khẳng định rằng các quan điểm của nước này sẽ được “xem xét toàn diện” và được ưu tiên so với những quan điểm của các cường quốc bên ngoài. Vấn đề với mô hình này là Nhật Bản, nước có thể sẽ không chấp nhận sự bá chủ của Trung Quốc, dù là mềm mỏng. Điều đó khiến Bản hòa tấu mô hình châu Âu, trong đó Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Mỹ, và có lẽ một hoặc hai nước khác nữa ngồi xuống bàn thương lượng về sức mạnh châu Á ngang bằng nhau. Nhưng liệu Mỹ có chấp nhận một vai trò khiêm tốn như vậy vì nước này đã gắn kết sự thịnh vượng và ổn định của châu Á với sự ưu việt của chính mình? Giáo sư White cho rằng, trong khi đối diện với sức mạnh đang lên của Trung Quốc, sự thống trị của Mỹ từ nay trở về sau có thể lại có nghĩa là bất ổn cho châu Á.

Sự thống trị của Mỹ được khẳng định dựa trên khái niệm rằng vì Trung Quốc là một chế độ độc đoán trong nước nên họ sẽ hành động “không thể chấp nhận được ở nước ngoài”. Nhưng có thể không phải như vậy, White lập luận. Quan niệm về mình của Trung Quốc là quan niệm của một cường quốc ôn hòa không bá quyền, một nước không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác theo cách mà Mỹ – với giáo lý của kẻ bao biện – vẫn làm. Bởi vì Trung Quốc tự nhận mình là một Vương quốc Trung dung, với nền tảng thống trị của họ là vị trí trung tâm vốn có của nước này với lịch sử thế giới, chứ không phải bất kỳ một hệ thống nào mà họ tìm cách xuất khẩu.

Nói cách khác, Mỹ, chứ không phải Trung Quốc, có thể là vấn đề trong tương lai. Chúng ta có thể thực sự quan tâm quá nhiều đến bản chất nội bộ của chính quyền Trung Quốc và tìm cách hạn chế sức mạnh của Trung Quốc ở nước ngoài bởi vì chúng ta không thích các chính sách trong nước của họ. Thay vào đó, mục tiêu của Mỹ ở châu Á nên là sự cân bằng, chứ không phải thống trị. Chính xác là bởi vì quyền lực cứng vẫn là chìa khóa cho các mối quan hệ quốc tế và chúng ta phải nhường chỗ cho một Trung Quốc đang lên. Mỹ không cần tăng sức mạnh hải quân của mình ở Tây Thái Bình Dương nhưng thực chất cũng không thể giảm bớt lực lượng này.

Việc mất đi một đội hàng không mẫu hạm Mỹ ở Tây Thái Bình Dương do cắt giảm ngân sách hoặc do tái bố trí đến Trung Đông có thể gây ra những cuộc thảo luận căng thẳng trong khu vực về sự suy giảm của Mỹ và hậu quả cần phải thực hiện những sửa đổi và các thỏa thuận với Bắc Kinh. Hoàn cảnh tốt nhất là sự hiện diện của hải quân và không quân Mỹ ở một mức độ nhiều hơn hoặc ít hơn hiện nay, ngay cả khi Mỹ phải dùng mọi sức mạnh của mình để xây dựng các mối quan hệ thất thiết và có thể dự báo trước với Trung Quốc. Bằng cách đó, Mỹ có thể điều chỉnh theo thời gian với một lực lượng hải quân viễn dương Trung Quốc. Trong các vấn đề quốc tế, đằng sau mọi câu hỏi về đạo đức đều ẩn chứa vấn đề quyền lực. Sự can thiệp nhân đạo tại vùng Balkan chỉ có thể bởi vì chế độ Serbia quá yếu, không giống như chính quyền Nga phạm các tội ác với quy mô tương tự ở Chechnya nhưng phương Tây không có hành động gì. Ở Tây Thái Bình Dương trong những thập niên tới đây, đạo đức có thể có nghĩa là từ bỏ một số các ý tưởng thân thương nhất của chúng ta vì lợi ích của sự ổn định. Chúng ta sẽ thế nào để tạo chỗ trống cho một Trung Quốc gần như độc tài khi quân đội nước này mở rộng? Bản thân sự cân bằng quyền lực, thậm chí nhiều hơn các giá trị dân chủ của phương Tây, thường là sự bảo vệ tốt nhất cho tự do. Đó cũng sẽ là một bài học của Biển Đông trong thế kỷ 21 – một bài học khác mà những người hay lý tưởng hóa không muốn nghe.

Robert D. Kaplan là một chuyên viên cấp cao của Trung tâm vì một An ninh Mỹ mới, nhà báo quốc gia cho The Atlantic, và một thành viên của Hội đồng Chính sách Quốc phòng thuộc Bộ Quốc phòng Mỹ. Ông là tác giả cuốn Monsoon: The Indian Ocean and the Future of American Power.


Người dịch: Trúc An
Nguồn:anhbasam.wordpress.com